Ialian Aster - Œil du Christ
Thạch Thảo
Cúc Cánh mối
Aster amellus L.
Asteraceae
Đại cương :
Danh pháp Aster, đi từ tiếng Hy lạp và có nghĩa là « dạng ngôi sao » . Tên loài amellus, được sử dụng lần đầu trong Géorgique ( Book IV, 271-280), của nhà thi sỉ Latin Publius Vergilius Maro (70 BC - 19 BC), nhưng nguyên ngữ học là mơ hồ và không chắc chắn.
Danh pháp Việt Nam được gọi là Cúc cánh mối ( vì dạng của cánh hoa ) hay còn gọi là Cây Thạch thảo hay Cúc thạch thảo.
Môi trường sống là những vùng đá vôi, bên cạnh những là những nhóm bụi nhỏ và không rậm nhưng cũng gặp trên những đồng cò nơi đầm lầy và cạnh bên hồ.
Cây thích sống ở vị trí có ánh nắng nhiều.
Cây thích sống trên nền đá vôi và hơi khô với độ pH kiềm và có giá trị thấp về dinh dưởng, với một độ cao điển hình từ 0 đến 800 m trên mực nước biển, gần như có trên hầu hết nước Pháp trừ phía tây và phía bắc.
▪ Thực vật bảo vệ :
Aster amelle nằm trong danh sách của những Loài Thực vật Bảo vệ trên toàn lảnh thổ nước Pháp français métropolitain. Được liệt kê trong phụ lục I hoặc II của danh sách các loài được bảo vệ trên toàn quốc. Cấm phá hoại, bán rong hoặc bán trên tất cả lảnh thổ nước Pháp của bất cứ bộ phận nào của Cây.
▪ Nguồn gốc danh pháp
Tên Thạch thảo có thể là do ảnh hưởng của nhà thơ Bùi Giáng khi dịch bài thơ « L’Adieu » « Lời vĩnh biệt » của nhà thi sĩ Guillaume Apollinaire, trong dịp đi thăm mộ của người con gái của nhà văn hào Victor Hugo, đã chết đuối cùng với chồng.
Nguyên tác của Guillaume Apollinaire (1880-1918) như sau.
L'Adieu
« J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends ».
- Bài thơ năm câu trên đây đã đuợc nhà thơ Bùi Giáng dịch, điều đáng chú ý là Cây mà thi sỉ Guillaume đề cập đến là Cây bụi «Bruyère», tên khoa học là Erica arborea hoặc Cây Erica vulgaris, thuộc họ Đổ Quyên Ericaceae ), nhà thơ Bùi Giáng cảm hứng với tên Thạch thảo, nhưng Thạch thảo lại có tên khác của Cúc Cánh mối họ Cúc Asteraceae là một loài cây thân thảo..
Có thể Cây Bruyère này có tên Thạch thảo của nhà thơ Bùi Giáng, và trong tự điển Pháp Việt của Thanh Nghị có nói Bruyère tên là Thạnh Thảo xuất Bản năm 1961 tức soạn trước cũng nhiều năm so với Bài thơ Bùi Giáng trong tập thơ “ Đi vào cỏi thu ” 1969.
Trong “ Lời vĩnh biệt ” Thạch Thảo là do Thạch = đá và Thảo = cỏ tức là loại cỏ mọc trên những đất có nhiều granite và silic của Bruyère và sau đó Phạm Duy phổ nhạc “ Mùa thu chết
Điều có thể nói là khi Bùi Giáng dịch, không nghĩ đến Aster, bởi vì Bùi Giáng biết Bruyère tên là Thạch thảo ( đơn giản Thạnh thảo, không biết đến thân mộc hay thân thảo ).
Như vậy người ta có 2 Thạch thảo :
- Một Thạch thảo của thi hào Guillaume Açollinaire, thông qua bản dịch của Nhà thơ Bùi Giáng , với Cây Bruyère, bụi Cây lớn cứng có gai, có thể mọc trong nghĩa trang khi nhà thi hào Guillaume thăm mộ mà câu chuyện là vợ chồng con gái của Victor Hugo chết đuối dưới sông..
- Một Thạch thảo, do dân gian, một thạch thảo thân thảo Aster, đẹp, mọc trên triền dóc núi, với một huyền thọai nam nữ yêu nhau.
- Nguyên tác bản dịch của Bùi Giáng như sau :
Lời vĩnh biệt
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ..
Chẳng những thế nhà thơ Bùi Giáng đã triển khai tiếp lần 2 :
Đã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán tam.
và tiếp thục thoáy ý lần 3 :
Mùa thu chiết liễu nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm mùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khuê đầu nguyệt diểu mang.
Bùi Giáng (1925-1998) dịch
("Đi vào cõi thơ". Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Aster amellus thân thảo cao khoảng 1-1,5 m, thẳng đơn hay phân nhánh ít ở ngọn, có lông trong một thởi gian ngắn. Thân ngầm dưới đất cứng, ít phân nhánh.
Lá, bên dưới hình bầu dục, thường nguyên, mọc sát vào thân, bên dưới nhỏ lại thành như một cuống, những lá kế tiếp bên trên không cuống, mọc cách, càng ngày càng thu hẹp và hình mũi dáo, có lông, thô trên cả 2 mặt, 3 gân chánh
Hoa, lưỡng phái ( có cơ quan sinh dục đực và cái ) tự thụ phấn, hoa đầu khoảng 3 cm đường kính, số hoa đầu khoảng từ 2 đến 6 thành một tản phòng corymbe ngắn và ít khi chỉ 1 ở ngọn.
Hoa hình tia lưỡi chung quanh có màu xanh dương hoặc lam tím, hoa ở trung tâm hình ống, sếp sát nhau màu vàng .
Hoa, tự thụ phấn hay nhờ những cô trùng (entomologie).
Trái, bế quả, có lông mào mịn, màu vàng.
Bộ phận sử dụng :
Rễ, và nước ép jus của rễ.
Thành phần hóa học và dược chất :
Những con số tính bằng grammes (g) hoặc milligrammes (mg) bởi 100 g thực phẩm ăn được.
▪ Lá ( trọng lượng khô )
- 305 calories pour 100g
- nước 0%
- chất đạm pProtéines 32.8g;
- chất béo lipides 5,5 g,
- đường glucides 50 g,
- chất xơ thực phẩm 8,6 g,
- tro 11,7 g;
▪ Nguyên tố khoáng Minéraux :
- Calcium 328 mg,
- Phosphore 594mg,
- Fer 31 mg,
- Magnésium 0 mg,
- Sodium 0 mg,
- Potassium 4,164 mg,
- Zinc 0 mg.
▪ Vitamines :
- vitamine A 26 mg,
- Thiamine (B1) 1.41mg,
- Riboflavine (B2) 2.81mg,
- Niacine 8.59mg,
- vitamine B6 0 mg,
- vitamine C 688 mg.
Đặc tính trị liệu :
▪ Những rễ Cây Cúc Cánh mối Aster amellus là :
- chống viêm anti-inflammatoires,
- chống ho antitussifs,
- lọc máu dépuratif,
- cầm máu hémostatique,
- và những bệnh liên quan ngực pectoral.
▪ Nó được sử dụng trong chữa tri :
- bệnh ho toux,
- những bệnh phổi pulmonaires,
- và bệnh sốt rét paludisme.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Nước ép jus của rễ được sử dụng :
bên trong cơ thể ở Népal để chữa trị :
- khó tiêu indigestion
và bên ngoài cơ thể để chữa trị :
- những mụn nhọt furoncles .
Giai thoại :
Ngày xưa ở một làng vùng ngoại ô có một đôi trai gái, nàng tên lá Ami người con trai tên là Edible, 2 người ở cạnh nhà nhau và cùng chơi rất thân từ thuở nhỏ.
Đến khi Ami và Edible đến tuổi trưởng thành. Edible khôi ngô tuấn tú và Ami là một thiếu nữ xinh đẹp dễ thương. Edible đem lòng thương cô bạn gái Ami. Nhưng Ami nói rằng chỉ bằng lòng đồng ý lấy một người nếu người ấy mang lại cho nàng một đóa hoa đẹp mà nàng thích. Edible không biết cô bạn của mình thích hoa nào.
Một hôm cả hai đi dạo chơi trong rừng, Edible săn thú còn Ami hái nấm, đến hoàng hôn cả hai cùng về nhà, trên đường đi bổng Ami chỉ trên một vách núi cao một đóa hoa màu xanh tím rất đẹp, Ami chỉ tay và kêu lên
Edible : « Loài hoa ấy, đẹp, Ami thích lắm rất thích ».
Edible bất chấp nguy hiểm, tìm đủ mọi cách leo lên vách núi hái hoa cho Ami. Nhưng khi hái thả hoa xuống Edible trọt chân té xuống vách núi, Edible gắng gượng quay lại nói với Ami :
« Xin đừng quên tôi »
rồi mãn nguyện từ từ nhắm mắt vĩnh viễn ra đi, đi xa mãi .
Ami ngồi đó, ngồi bên bờ vực thẳm, ngồi như người mất hồn, không nói không cười, cầm lấy đóa hoa tim tím mà nâng niu.
Từ đó Ami không khóc, không ăn, uống suốt ngày chỉ ngồi lặng lẽ ngồi trong vườn chăm sóc bụi hoa tím. Cho đến một ngày Ami lặng lẽ ra đi vào cõi xa hợp mặt với Edible.
Sai khi Ami chết, dân trong làng chăm sóc cẫn thận đóa hoa màu tím. Ai ai cũng thương tiếc cho đôi tình nhân trẻ. Loài hoa này ngày nay gọi là « For get me not » « Xin đừng quên tôi » Trong dân gian Việt Nam gọi là Hoa Thạch thảo.
Nguyễn thanh Vân